Chử Đồng Tử là ai?
Theo dân gian, ông là người làng Chử Xá (nay thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Cha mẹ của Chử Đồng Tử ông Chử Cù Vân và bà Bùi Thị Gia.
Vợ mất sớm, ông Chử Cù Vân một mình gà trống nuôi con. Không may căn nhà gặp hỏa hoạn, 2 cha con phải chia nhau chiếc khố để dùng khi ra ngoài. Chẳng bao lâu Chử Cù Vân bị bệnh nặng, trước khi qua đời, ông dặn con trai : “Cha chết đi, con giữ cái khố lại mà che thân, cho thiên hạ khỏi chê cười”. Nỡ lòng nào phận làm con mà để cha chết trần, Đồng Tử chôn chiếc khố cùng cha. Chàng sau đó phải kiếm sống hàng ngày bằng nghề mò cua, bắt ốc dù không mảnh vải che thân.
Truyền thuyết Chử Đồng Tử Tiên Dung
Thuở ấy, vua Hùng thứ 18 có người con gái nhan sắc tuyệt trần, tên là Tiên Dung. Vào một ngày đẹp trời, thuyền của công chúa Tiên Dung dạo chơi dọc sông Hồng. Lúc đó, Chử Đồng Tử đang ngâm mình bắt cá dưới sông, nhìn thấy từ xa đoàn thuyền dong buồm đi tới, sợ quá chàng liền chạy lên bờ nhằm khóm lau vùi mình xuống cát. Ngắm phong cảnh hữu tình, công chúa Tiên Dung cho dừng thuyền, sai tỳ nữ lên bờ quây màn tắm bên một khóm lau, chẳng ngờ lại đúng nơi chàng trai họ Chử giấu mình. Nước dội cát trôi, phút chốc nàng thấy lộ ra thân hình một chàng trai trẻ cũng không quần áo. Trước người con gái có thân thể như ngọc như ngà, Chử Đồng Tử sợ hãi định chạy trốn. Ngẫm là chuyện trời định, Tiên Dung bình tĩnh nói: “Ta và chàng tình cờ gặp nhau ở đây, đều mình trần như thế này, âu cũng là nhân duyên do trời sắp đặt”. Liền đó, Tiên Dung truyền mang quần áo cho Chử Đồng Tử và cùng chàng làm lễ kết duyên ngay trên thuyền.
Vua Hùng nghe tin con gái lấy kẻ nghèo hèn thì đùng đùng nổi giận không nhận là con nữa. Tiên Dung thấy vậy không dám về, ở lại cùng Chử Đồng Tử sống một cuộc sống bình dị mà hạnh phúc. Họ mưu sinh bằng nghề chài lưới và trao đổi hàng hoá trên sông. Nơi ấy trở thành nơi đô hội, thuyền bè buôn bán tấp nập. Cảm mến tình cảm vợ chồng Chử Đồng Tử, Tiên Ông đã truyền phép thần cho Chử Đồng Tử. Họ cùng nhau đi khắp vùng Khoái Châu dùng chiếc gậy thần để cứu sống những người chết do bị nạn dịch, đói khổ… Trên đường cứu nhân độ thế, Tiên Dung tình cờ gặp nàng Tây Sa vốn là công chúa Tây cung giáng trần, bèn kết nghĩa chị em, rồi se duyên cho Chử Đồng Tử, cùng nhau giúp đời. Nàng Tây Sa rất giỏi bùa chú dùng chiếc gậy thần và cái nón tiên xây dựng cung điện bằng châu ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa. Khi nhà vua lâm bệnh nặng, Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã bí mật cho nàng Tây Sa về chữa bệnh cho vua cha. Được thuốc tiên, nhà vua khỏi bệnh liền phong cho nàng Tây Sa là “Công chúa của nước Phật”.
Có kẻ nịnh thần về kinh đô tâu với vua Hùng rằng: Vợ chồng công chúa Tiên Dung dùng phép lạ dựng thành quách, muốn lập riêng bờ cõi. Ngỡ con làm phản, vua Hùng sai quan quân đến dẹp. Vợ chồng Chử Đồng Tử không dám cưỡng lại mệnh cha, chờ chịu tội. Nửa đêm hôm ấy một trận cuồng phong nổi lên, cả lâu đài thành quách của vợ chồng Chử Đồng Tử cùng bay lên trời, để lại một đầm nước rộng mênh mông. Người đời sau gọi đầm ấy là đầm Nhất Dạ (đầm một đêm). Nơi Chử Đồng Tử vùi thân giấu mình nay thuộc xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Tương truyền sau khi Chử Đồng Tử và Tiên Dung hóa (về trời), vua Hùng Duệ Vương đã đến chỗ con gái ở. Hối hận và thương con, nhà vua đã ban tước Chử Công cho Chử Đồng Tử và cho lập đền thờ.
Xem thêm: Truyện Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dầy – Nội Dung Chi Tiết và Ý Nghĩa
Truyền thống thờ cúng Đức Thánh tổ Chủ Đồng Tử
Cảm động trước mối tình bất tử, đền thờ Đức thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa được nhân dân thờ phụng nhiều nơi trên địa bàn đồng bằng và trung du Bắc bộ, chủ yếu là các làng ven sông Hồng, nhưng đền thờ nổi tiếng nhất là đền Đa Hoà thuộc xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, Hưng Yên. Ngôi đền này năm 1894 được Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở hưng công xây dựng lại.
Bên cạnh có còn có đền Hóa (nơi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân hóa về trời) là đền thờ “Chính” thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trong đền thờ còn có ban thờ Triệu Việt Vương (Do ngày xưa Triệu Việt Vương đóng quân ở đây – đằng sau đền thờ, sâu dưới đất các nhà khảo cổ đã tìm thấy di tích doanh trại có niên đại thời nước Vạn Xuân). Khi thực dân Pháp xâm lược Bắc Kỳ đã đốt đền thờ nhưng không đốt được bia đá. Các di vật như 3 pho tượng cổ bằng vàng-đồng đen, lọ cổ 100 chữ thọ đã được dân cất dấu và sau này chuyển tạm về đền thờ “Tránh” Đa Hòa. Đền đã được nhân dân Khoái Châu dựng lại.
Ngoài ra còn một số đền Làng thờ như: Đền Ngự Dội Làng Màn Trầu, huyện Đông Yên nay là thôn Toàn Thắng, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đền Làng Quan Xuyên xã Thành Công huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Chủ điểm chính của thần tích về Chử Đồng Tử chính là việc phong thần cho một hình tượng doanh thương, mở đầu việc mở chợ buôn bán và nhờ doanh thương mà xây dựng được sự nghiệp từ một hoàn cảnh nghèo khổ đến không còn nổi một chiếc khố, phải xin ăn ở bến sông. Với việc tu luyện Phật pháp thì chỉ cần cây gậy chiếc nón (vật dụng của kẻ hành khất, và cũng là vật dụng của nhà sư đi khất thực) cũng có thể làm nên sự nghiệp kinh tế lớn lao.
Phật tử đầu tiên của Việt Nam
Người ta cho rằng, người Ấn đã xuất hiện đầu tiên trong các phiên buôn hàng tại khu chợ ngày xưa. Mà Ấn Độ là nơi khởi nguồn của Phật giáo. Khi đi buôn trên biển, ông đã lần đầu gặp vị tăng sĩ Ấn Độ có tên Phật Quang trên một hòn đảo.
Theo dữ kiện trên, Đồng Tử và Tiên Dung gặp nhau là do duyên số định đoạt.
Nếu như Đồng Tử không vì chữ hiếu mà chôn khố theo cha. Thì liệu anh có khố mặc khi làm việc? Nếu vậy, anh cũng không việc gì phải vùi mình vào khóm lau để tránh Tiên Dung. Nếu không vì tính chu du và phóng khoáng của mình, liệu Tiên Dung có giong buồm đi đó đây và chạm mặt Đồng Tử trong một viễn cảnh khó tin nhất không?
Nếu Tiên Dung không thành hôn với Đồng Tử. Liệu nàng có phải sống mưu sinh xa nhà tránh vua cha? Nếu không khởi nghiệp buôn bán và đi đó đây, liệu Đồng Tử có bao giờ được gặp vị tăng sĩ người Ấn trên đảo nọ? Nhân – quả, quả – nhân duyên, đây chính là sự khởi kết trùng trùng.
Như vậy, từ cuộc gặp gỡ đầy duyên phận với Tiên Dung và sau là nhà sư Ấn Độ Phật Quang, Chử Đồng Tử đã trở thành Phật tử Việt Nam.