Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi – 10 Truyện Cổ Tích Ba Mẹ Phải Kể Cho Bé

Đọc truyện cổ tích cho bé 4 tuổi nghe hoặc đọc cùng con mỗi tối là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để tăng cường các kiến thức xã hội cho con. Cũng như nuôi dưỡng tinh thần và thúc đẩy sự phát triển trí thông minh của trẻ. Dưới đây là 10 truyện cổ tích cho bé 4 tuổi hay nhất. Các phụ huynh hãy lưu bài viết này lại và đọc cho bé mỗi tối.

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 1: Các Truyền Thuyết Về Vua Hùng  

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 1: Các Truyền Thuyết Về Vua Hùng  
Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 1: Các Truyền Thuyết Về Vua Hùng

Truyền thuyết “Vua Hùng trồng kê ra lúa”

Một hôm các con gái vua Hùng theo dân đi đánh cá ven sông thấy từng đàn chim bay lượn khắp bãi, nhảy nhót trong đám lau cỏ, khiến các nàng rất vui thích. Có một nàng công chúa, mải ngắm đàn chim, dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi trên mái tóc. Công chúa mang bông kê về trình với Vua, Vua mừng, cho là điềm tốt lành, hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo các Mỵ nương ra bãi tuốt các bông đó đem về.

Tới mùa xuân, Vua đem các hạt kê ra và phái các công chúa gọi dân đi quải. Nhân dân vui mừng rước Vua ra đồng. Trống mõ đi đầu rồi tới người rước lúa, rước kê. Tới bên sông, Vua xuống bãi lấy que nhọn chọc đất tra lúa và gieo kê trên bãi. Làm xong, Vua cắm một cành tre để chim sợ khỏi ăn hạt. Các Mỵ nương và dân đều làm theo.

Truyền thuyết “Vua Hùng dạy dân cấy lúa”

Thuở xưa, nhân dân chưa biết cày cấy làm ra thóc gạo mà ăn, chỉ sống bằng thịt thú rừng, rễ cây, quả cây và các loại rau dại, lúa hoang nhặt được. Các vùng đất ven sông hàng năm được phù sa bồi thêm màu mỡ. Vua Hùng thấy đất ấy tốt mới gọi dân đến bảo tìm cách đắp bờ giữ nước. Vua thấy lúa mọc hoang nhiều mới bày cách cho dân gỡ hạt, gieo mạ. Khi mạ lên xanh thì đem cấy vào các tràn ruộng có nước.

Lúc đầu dân không biết cấy, tìm hỏi Vua. Vua Hùng nhổ cây mạ lên, đem tới ruộng nước, lội xuống cấy cho dân xem. Mọi người làm theo, cấy tới khi mặt trời đứng bóng, Vua cùng mọi người lên gốc đa lớn nghỉ ngơi ăn uống.

>>>>Truyện Tranh Cho Bé 4 Tuổi – Những Truyện Hay Nhất Và Thông Tin Hữu Ích Cho Bố Mẹ

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 2: Sự Tích Ông Ba Mươi 

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 2: Sự Tích Ông Ba Mươi 
Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 2: Sự Tích Ông Ba Mươi

Đã từ lâu lắm, trên cõi trời có một người có sức khỏe lạ lùng, những việc dời núi, lấp biển, đội đá, bẻ cây,… không một ai bì kịp. Nói về tài phép, ông cũng thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị trên Thiên Đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ. Vốn tinh nghịch và hung hăng quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét. Nhưng người ta đều tránh né ông, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu nổi chỉ một cú đấm, cái gạt của ông.

Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng qua chỉ là đồ bị thịt, tài nghệ và sức khỏe không có tý gì. Và ông lấy làm bực mình vì sao bấy lâu danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng vời vào để trao cho một chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phụ của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc Hoàng, tự nghĩ rằng có sức mạnh và tài phép như mình thì nên làm vua nhà Trời mới phải. Thế rồi chẳng bao lâu ông đã tụ tập xung quanh mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên Đình mà vì sợ oai Phạm Nhĩ nên không một ai dám bắt. Cuối cùng, Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân tiến đến Thiên Cung đòi hạ bệ Ngọc Hoàng để cho mình trị vì thiên hạ.

Nghe tin chẳng lành, Ngọc Hoàng thượng đế vội vàng sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn. Có đến mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng thét ra lửa, tay bẻ gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về.

Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Nhưng cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay. Quân đội nhà Trời vốn đông như kiến cỏ, không ngờ kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Thừa thắng, Phạm Nhĩ thúc quân tiến lên vây chặt Thiên cung.

Thấy thế, Ngọc Hoàng thượng đế hết sức lo lắng. Theo lời bàn của các triều thần, Ngọc Hoàng vội sai Bắc đẩu cầu cứu đức Phật. Nghe tin cấp báo, đức Phật liền sai Chuẩn Đề đi bắt Phạm Nhĩ. Nhưng đức Phật không ngờ Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, lại bị ăn đòn nặng nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi.

Sau rốt, đức Phật đành phải tự thân ra đi. Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực, thì đức Phật đã xuất hiện giữa không trung. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của đức Phật, toàn thân co rúm, không cất chân động tay được nữa. Thế là ông bị bắt. Bọn bộ hạ mất tướng như rắn mất đầu, không ai bảo ai tẩu tán khắp nơi.

Trước khi ra về, đức Phật giao lại tên tù cho Ngọc Hoàng xử trí, nhưng cũng dặn làm sao cho y hối lỗi chứ đừng giết hại. Ngọc Hoàng bèn quyết định đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp vật. Nhưng trước hết Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để tước bớt sức mạnh, e rằng bất thần ông lại bay trở về Trời thì rất nguy hiểm. Hơn nữa, Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại. Tuy nhiên, thể theo lời dặn của đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm chúa tể sơn lâm để an ủi đôi phần.

Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn có cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn còn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu chúa tể mà Ngọc Hoàng phong cho. Cho đến sau này, dòng dõi nhà ông vẫn nối nhau làm chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiềng ông, không dám gọi cái tên “Hổ”, mà chỉ gọi tránh là ông “Ba Mươi”. Tại sao lại gọi là ông Ba Mươi? Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu ba mươi hèo để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa.

Ngày nay còn có câu:

Trời sinh ra hùm có vây

Hùm mà có cánh, hùm bay lên trời

để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia.

>>>>Truyện Cho Bé 4 Tuổi – Bốn Truyện Nuôi Dưỡng Tâm Hồn Trẻ Mỗi Tối

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 3: Sự Tích Mèo Và Chuột 

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 3: Sự Tích Mèo Và Chuột 
Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 3: Sự Tích Mèo Và Chuột

Đời xưa, chuột vốn là một giống linh thiêng ở trên Trời. Trời giao cho nó giữ chìa khóa kho lúa của Trời. Nhưng chuột không phải là một loài đáng tin cẩn, nhận được giữ chìa khóa, cứ tự do đến mở kho rủ nhau vào ăn rả rích hết bao nhiêu là lúa.

Sau Trời biết, lấy làm giận lắm, mới không cho ở trên ấy nữa, mà đuổi xuống dưới hạ giới để sai giữ chìa khóa lẫm thóc của nhân gian.

Nhưng chứng nào tật ấy, chuột lại rủ nhau vào lẫm thóc của người rả rích ăn no nê. Đến nỗi người phải có câu than rằng:

“Chuột kia xưa ở nơi nào ?
Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này ?”

Người lấy làm chua xót, mới kêu với vua Bếp. Vua Bếp liền bắt nó đem lên trả Trời và tâu rằng:

– Chuột này vốn chuột của Thiên Đình, sao Thiên Đình lại thả nó xuống hạ giới ?

Trời nói:

– Ừ, trước nó ở trên này giữ chìa khoá kho thóc cho ta. Nhưng bởi nó ăn vụng lúa của ta nhiều lắm nên ta không cho nó ở trên này, ta đuổi nó xuống hạ giới cho nó giữ lúa ở dưới ấy.

Vua Bếp tâu:

– Nó xuống dưới ấy nó lại ăn vụng lúa hại lắm. Bẩm,chúng con thiết nghĩ: lúa của Trời nhiều, lúa của người ít, của Trời nó ăn không hết chớ của người nó cứ ăn mãi, thì có ngày hết cả, người đến chết đói mất. Vậy xin bây giờ lại cho nó lên trên Trời là phải.

Trời nghe tâu, phán rằng:

– Không được. Ta đã đuổi nó đi cho xa, ta không thể cho nó lại lên đây nữa. Thôi bây giờ có một cách: Ta có một con mèo, ta cho chú đem xuống hạ giới để khi nào chuột nó ăn lúa của nhân gian thì thả mèo ra cho nó bắt chuột, rồi gầm gừ ăn chuột đi, còn khi nào nó không muốn bắt chuột, thì chú bảo con mèo cứ kêu với con chuột rằng: “Nghèo, nghèo, nghèo”, thì chuột nó cũng sợ mà nó phải bỏ đi.

Vua Bếp lạy tạ, rồi lại đem chuột và cả mèo xuống hạ giới. Rồi cứ theo như lời dạy mà làm.

Thành thử bây giờ khi nào mèo rình bắt được chuột, rồi mèo cứ “gầm gừ, gầm gừ” và khi nào không bắt được chuột thì mèo ngồi kêu: “nghèo, nghèo, nghèo, nghèo”…

Nhưng lúc ấy, mèo ngồi nghĩ lại, mới lấy làm giận vua Bếp, vì tại vua Bếp mèo mới phải xuống dương gian. Nhưng không làm gì nổi vua Bếp, mèo chỉ còn cách thỉnh thoảng vào giữa đống tro bếp để phóng uế.

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 4: Sự Tích Hoa Đào

Hoa đào là loại hoa rất phổ biến dịp tết, Sự tích hoa đào cũng là một trong số những truyện cổ tích cho bé 4 tuổi được bố mẹ chọn để kể cho bé nghe. Dưới đây là nội dung truyện

Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, Bắc Việt có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào to lớn khác thường, bóng cây che phủ cả một vùng rộng.

Có 2 vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này. Các vị diệt trừ ma quái, giúp cho người dân trong vùng có được cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Khiếp sợ trước quyền năng to lớn của 2 vị thần, lũ yêu ma cũng sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là chúng đã sợ hãi bỏ chạy.

Tuy nhiên, đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, 2 thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Chính vì thế, lũ yêu tinh được dịp hoành hành, tác oai tác quái.

Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã nghĩ ra một cách là đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ. Nếu ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà để xua đuổi ma quỷ.

Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà để trừ ma quỷ. Tuy nhiên về sau, người ta quên mất ý nghĩa thần bí của tục lệ này vì không còn tin vào ma quỷ, thần linh như tổ tiên ngày xưa.

Ngày nay, cành đào tươi thắm vẫn xuất hiện trong mỗi ngôi nhà vào dịp Tết đến xuân về nhưng ý nghĩa của nó đã khác xa với tục lệ ngày xưa. Vẻ đẹp của nó đã mang lại sự ấm cúng cho mỗi nhà, gieo vào lòng mỗi người niềm vui, niềm tin yêu, hy vọng vào năm mới tốt đẹp.

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 5 Sự Tích Người Mẹ 

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 5 Sự Tích Người Mẹ 
Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi Số 5 Sự Tích Người Mẹ
Ngày xưa, khi tạo ra người Mẹ đầu tiên trên thế gian, ông Trời đã làm việc miệt mài suốt sáu ngày liền, quên ăn quên ngủ mà vẫn chưa xong việc.Thấy vậy một vị thần bèn hỏi:“Tại sao ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật này?”
Ông Trời đáp: “Ngươi thấy đấy. Đây là một tạo vật cực kì phức tạp gồm hơn hai trăm bộ phận có thể thay thế nhau và cực kì bền bỉ, nhưng lại không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Tạo vật này có thể sống bằng nước lã và thức ăn thừa của con, nhưng lại đủ sức ôm ấp trong vòng tay nhiều đứa con cùng một lúc. Nụ hôn của nó có thể chữa lành mọi vết thương, từ vết trầy trên đầu gối cho tới một trái tim tan nát. Ngoài ra ta định ban cho vật này có sáu đôi tay”
Vị thần nọ ngạc nhiên: “Sáu đôi tay? Không thể tin được!”. Ông Trời đáp lại: “Thế còn ít đấy. Nếu nó có ba đôi mắt cũng chưa chắc đã đủ”. “Vậy thì ngài sẽ vi phạm các tiêu chuẩn về con người do chính ngài đặt ra trước đây”, vị thần nói.
Ông Trời gật đầu thở dài: “Đành vậy. Sinh vật này là vật ta tâm đắc nhất trong những gì ta đã tạo ra, nên ta dành mọi sự ưu ái cho nó. Nó có một đôi mắt nhìn xuyên qua cánh cửa đóng kín và biết được lũ trẻ đang làm gì. Đôi mắt thứ hai ở sau gáy để nhìn thấy mọi điều mà ai cũng nghĩ là không thể biết được. Đôi mắt thứ ba nằm trên trán để nhìn thấu ruột gan của những đứa con lầm lạc. Và đôi mắt này sẽ nói cho những đứa con đó biết rằng Mẹ chúng luôn hiểu, thương yêu và sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của chúng, dù bà không hề nói ra”.
Vị thần nọ chạm vào tạo vật mà ông Trời đang bỏ công cho ra đời và kêu lên: “Tại sao nó lại mềm mại đến thế?”. Ông trời đáp: “ Vậy là ngươi chưa biết. Tạo vật này rất cứng cỏi. Ngươi không thể tưởng tượng nổi những khổ đau mà tạo vật này sẽ chịu đựng và những công việc mà nó phải hoàn tất trong cuộc đời.”
Vị thần dường như phát hiện ra điều gì, bèn đưa tay sờ lên má người Mẹ đang được ông Trời tạo ra “Ồ, thưa ngài. Hình như ngài để rơi cái gì ở đây”. “Không phải. Đó là những giọt nước mắt đấy”, ông Trời thở dài.
“Nước mắt để làm gì, thưa ngài?”, vị thần hỏi.
“Để bộc lộ niềm vui, nỗi buồn, sự thất vọng, đau đớn, đơn độc và cả lòng tự hào – những thứ mà người Mẹ nào cũng sẽ trải qua”.

Truyện Cho Bé Số 6: Con Cóc Là Cậu Ông Trời

Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi - Truyện Con Cóc Là Cậu Ông Trời
Truyện Cổ Tích Cho Bé 4 Tuổi – Truyện Con Cóc Là Cậu Ông Trời

Trong kho tàng Truyện cổ tích cho bé 4 tuổi chúng ta không thể không kể cho  bé truyện con Cóc là cậu Ông Trời. Nội dung chuyện như sau: 

Thuở xa xưa, Ngọc Hoàng cai quản tất cả các việc trên trời và dưới đất. Ngọc Hoàng giao cho thần Mưa chịu trách nhiệm làm mưa cho tất cả các con vật và cây cỏ có nước uống.

Nhưng đã ba năm nay, không có một giọt mưa nào. Khắp nơi đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết rụi, các con thú cũng chết dần chết mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than ai oán, vậy mà trời đâu có thấu.

Một hôm, các con vật họp bàn với nhau lại, chúng quyết định cử Cóc lên gặp Ngọc Hoàng. Cùng đi với Cóc có Cáo, Gấu và Cọp.

Bốn con vật đi mãi, cuối cùng cũng lên đến cửa nhà trời. Ở cánh cửa có đặt một cái trống rất to. Theo tục lệ, nếu ai có điều gì oan ức, thì đánh trống lên, Ngọc Hoàng sẽ ra giải quyết. Cóc bảo Cáo, Gấu, Cọp nấp vào bụi rậm, còn Cóc thì nhảy lên đánh trống inh ỏi.

Ngọc Hoàng nghe tiếng trống liền sai một thiên thần ra nhìn xem ai. Thiên thần bước ra nhìn ngược nhìn xuôi mãi không thấy ai, chỉ thấy một con Cóc bé nhỏ ngồi trên trống. Khi biết Cóc có ý định gặp Ngọc Hoàng, thiên thần tỏ ý khinh bỉ Cóc, lẳng lặng đi vào và thưa với Ngọc Hoàng:

– Thưa Ngọc Hoàng, kẻ dám cả gan đánh trống ầm ĩ nhà trời là một con Cóc bé tí, xấu xí, thần hỏi nó đi đâu, nó nói lên gặp Ngọc Hoàng để kiện.

Ngọc Hoàng nghe thiên thần nói vậy thì giận lắm, bèn sai bầy gà ra mổ Cóc. Bầy gà vừa ló khỏi cửa, Cóc ra hiệu cho Cáo từ trong bụi rậm ra vồ gà.

Biết Gà bị Cáo bắt mất, Ngọc Hoàng liền sai Chó ra bắt Cáo. Chó chạy ra chỉ kịp sủa một tiếng đã bị Gấu ra chộp lấy tha đi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra trị Gấu. Lần này, Cọp xông ra quật ngã toán lính không chừa một người nào.

Ngọc Hoàng không ngờ Cóc tuy bé nhỏ mà lại khó trị như vậy, Ngọc Hoàng đổi giận làm lành sai thiên thần ra mời Cóc vào. Ngọc Hoàng hỏi Cóc:

– Cậu lên đây có việc gì?

Cóc thưa:

– Muôn tâu Ngọc Hoàng, đã 3 năm nay, chúng tôi không được một giọt mưa nào. Loài vật cử tôi lên đây để kiện trời, vì sao không làm mưa?

Ngọc Hoàng cho gọi thần Mưa đến. Té ra là thần Mưa mải rong chơi, tối về đắp chiếu nằm ngủ quên không làm mưa bị Ngọc Hoàng trách mắng, thần Mưa vội sai các con rồng phun nước ào ào xuống đất. Ngọc Hoàng đưa tiễn Cóc ra về và dặn:
– Từ nay về sau, nếu cần mưa thì Cóc nghiến răng ken két báo cho Ngọc Hoàng biết. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay. Cóc không phải lên kiện trời nữa.

Cóc, Cáo, Gấu, Cọp từ biệt Ngọc Hoàng trở về. Khi bốn con vật đến nơi thì thấy nước đã tràn đầy hồ, ao, sông suối, cây cỏ, muôn loài uống nước thỏa thuê. Tất cả đều phục Cóc bé tí mà kiện được trời nên đặt ra câu hát:

“Con Cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh Cóc thì trời đánh cho”

Truyện Cho Bé Số 7: Sự Tích Chim Cuốc 

Truyện thứ 7 trong các truyện cổ tích cho bé 4 tuổi hay nhất là tự tích Cuốc. Nội dung truyện như sau:

Ngày ấy có đôi bạn chí thân là Quắc và Nhân. Họ đều là con nhà học trò nghèo, lại đều mồ côi cha mẹ, Quắc được học nhiều hơn bạn: anh chàng làm thầy đồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng có là bao nhưng Quắc vẫn thường giúp đỡ Nhân. Đối lại, có lần Quắc bị ốm nặng, giá không có bạn thuốc thang ngày đêm thì anh khó lòng sống nổi. Sau đó cũng vì sinh kế, đôi bạn phải chia tay mỗi người một ngả. Trong khi Quắc sống cuộc đời dạy trẻ thì Nhân cũng đi lang thang đến các vùng xa lạ làm thuê làm mướn. Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh chàng vào làm công cho một phú thương. Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao lâu Nhân được phú thương gả con gái cho. Vợ Nhân có nhiều của riêng. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở nên một phú ông có cơ nghiệp kha khá ở trong vùng. Nhân giàu nhưng không quên tình bầu bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề “sống chết sướng khổ có nhau” với Quắc. Nhân cất công đi tìm và sung sướng thấy Quắc còn sống. Tuy Quắc đang dở năm dạy, nhưng Nhân cũng thương lượng được với cha mẹ học trò cho con em chuyển sang một cụ đồ khác rồi đưa Quắc về nhà mình.

Nhân dặn người nhà phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không được bê trễ. Nhưng tính vợ Nhân không được như chồng. Xưa nay đối với những kẻ rách rưới, chị ta thường tỏ vẻ coi thường. Vả, chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân nên có thấy đâu tình nghĩa giữa Nhân và Quắc như thế nào. Nhưng thấy chồng trọng đãi khách nên lúc đầu chị không dám nói gì. Nhân luôn luôn bảo vợ: “Đây là người thân nhất trong đời tôi. Nếu không có bạn thì tôi chưa chắc đã sống để gặp nàng”. Vợ Nhân chỉ lẩm bẩm: “Khéo! Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại”. Dần dần vợ Nhân bực mình ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở đâu đến chả giúp ích gì cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày hai bữa. Vợ Nhân trước còn nói mát sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người đàn bà ấy đay nghiến cả chồng lẫn khách:

– Chẳng phải bố già, không phải khách nợ, ở đâu lại rước về thờ phụng: ăn no lại nằm. Thôi liệu mà tống quách đi!

Thấy thái độ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ sợ mất lòng bạn. Một mặt Nhân thân hành chăm chút bạn chu đáo hơn cả lúc trước, mặt khác Nhân tỷ tê khuyên dỗ vợ. Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì chàng hiểu tất cả. Đã hai lần Quắc cáo bạn xin về nhưng Nhân cố giữ lại. Thấy bạn chí tình, Quắc lại nấn ná ít lâu. Nhưng hôm đó Quắc quả quyết ra đi vì chàng vừa nghe được những câu nói xúc phạm nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không đi sớm thì có ngày bị nhục với người đàn bà này. Mà nếu ra đi như mấy lần trước thì sẽ bị bạn chèo kéo lôi thôi.

Một hôm, trời còn mờ sương, Quắc cất lẻn ra khỏi nhà. Để cho bạn khỏi mất công tìm kiếm, khi đi qua một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên đường. Đoạn Quắc lần mò đến xứ khác trở lại cuộc đời dạy trẻ. Thấy mất hút bạn, Nhân bổ đi tìm. Khi nghe tin có người bắt được khăn áo ở mé rừng phía Nam, chàng lật đật đến xem. Nhận rõ ấy là khăn áo của bạn, Nhân rất thương cảm: “Ta nuôi bạn thành ra hại bạn! Chắc bạn ta bị cướp giết chết”. Nhưng sau đó Nhân lại nghĩ khác: “Bạn ta ra đi trong túi không có một đồng một chữ thì dầu có gặp cướp cũng không việc gì. Đây một là hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc trong rừng sâu”. Nhân bắt đầu vào rừng tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng. Băng hết chông gai, chui hết bụi rậm, Nhân luôn luôn cất tiếng gọi: “Anh Quắc ơi! Quắc! Quắc!”. Nhân đi mãi, gọi mãi, quanh quẩn trong rừng mênh mông. Cho đến hơi thở cuối cùng con người chí tình ấy vẫn không quên gọi: “Quắc! Quắc!”. Rồi đó Nhân chết hóa thành chim quốc, cũng gọi là đỗ quyên.

Vợ Nhân đợi mãi không thấy chồng về, lấy làm hối hận. Một hôm chị ta bỏ nhà bỏ cửa đi tìm chồng. Cuối cùng cũng đến khu rừng phía Nam. Nghe tiếng “Quắc! Quắc!”, chị ta mừng quá kêu to: “Có phải anh đấy không anh Nhân!” Không có tiếng trả lời ngoài những tiếng “Quắc! Quắc!”. Vợ Nhân cứ thế theo tiếng gọi tiến dần vào rừng sâu. Sau cùng không tìm được lối ra, chết bên cạnh một gốc cây.

>>> Ngoài các truyện cổ tích cho bé 4 tuổi này bố mẹ cũng đọc thêm 10 Truyện Kể Cho Bé Mỗi Đêm Giúp Bé Ngủ Ngon Và Thông Minh

Truyện Cổ Tích Số 8: Nói Dối Như Cuội 

Nói dối như cuội là một trong những truyện cổ tích cho bé 4 tuổi hay nhất. Ba mẹ hãy kể cho bé nghe mỗi ngày với nội dung truyện như sau: 

Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi tên là Cuội. Từ thuở nhỏ, Cuội mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi ở với chú thím. Hắn ta là tay láu lỉnh, đặc biệt về môn lừa người thì rất thành thạo. Một lão trọc phú ở trong miền nghe tiếng đồn về Cuội tỏ vẻ không tin. Một hôm, hắn cho người gọi Cuội đến và bảo:
– Nghe nói mày lừa người giỏi lắm. Bây giờ tao ngồi ở đây, đố mày lừa tao cho tao ra ngoài cổng thì tao lập tức thưởng cho mày năm quan. Đấy có mọi người làm chứng đấy! Cuội ta gãi đầu gãi tai đáp:
– Ông ngồi ở đây, lại có đề phòng sẵn thì làm sao mà lừa ông ra ngoài kia được. Nếu ông ra đứng ngoài cổng tôi mới có cách lừa được ông vào nhà. Nghe nói thế, lão trọc phú chạy ra cổng. Nhưng khi đến nơi, Cuội đã vỗ tay reo:
– Đấy tôi đã lừa được ông ra cổng rồi! Trọc phú bị tẽn vì thua cuộc đành phải y ước đem tiền cho Cuội. Nhà chú thím Cuội có nuôi một con lợn béo. Một hôm nhân lúc mọi người đi vắng cả, Cuội gọi người hàng thịt đến nhà bán rẻ con lợn đó lấy tiền tiêu. Cuội chỉ dặn người ấy giấu kín cho mình và xin lại cái đuôi lợn sống. Hắn đã tìm ra được một mưu để nuốt trôi con lợn. Hắn đào một cái lỗ nhỏ ở đám đất gần chuồng lợn, cắm cái đuôi vào đó rồi nện đất rất chặt. Chờ lúc người thím đi làm về, hắn làm vẻ mặt hốt hoảng, nói:
– Thím ơi! Thật là số không may. ông gì ấy ông bắt mất lợn nhà ta. Nó xuống âm phủ mất rồi. Rồi Cuội dắt thím ra chuồng lợn, nói tiếp:
– Nó đã xuống cả hai chân sau rồi, chỉ còn cái đuôi, bây giờ thím hãy giữ lấy cái đuôi đừng cho nó xuống mà cũng đừng giật mạnh kẻo đứt mất là hỏng việc. Cháu sẽ lấy thuổng đào đất xung quanh, may chi bắt nó trở về. Người thím nghe nói tưởng ông gì bắt lợn thật, vừa lo sợ vừa tiếc của, giục Cuội làm nhanh. Cuội lẳng lặng lấy thuổng đào đất. Đất bở ra, cái đuôi không kéo tự nhiên rời khỏi mặt đất. Thấy thế hắn la to lên:
– Thôi! Thế là lợn xuống âm phủ mất rồi. Còn làm ăn gì được nữa. Một hôm, Cuội cùng chú đi chợ. Cuội xách một cái thúng không. Đột nhiên, Cuội chạy lên trước bỏ quá chú một quãng rồi lấy thúng úp một bãi cứt trâu ở dọc đường. Khi người chú vừa đến nơi, Cuội khư khư giữ chịt lấy thúng, bảo:
– May quá! Cháu vừa úp được một con chim ngói to lắm! Nhưng nếu bây giờ thò tay vào bắt thì nó trượt mất. Vậy chú mau mua về lấy tay lưới giăng chung quanh để bắt cho chắc. Con này mà đánh chén thì tuyệt! Người chú vốn có máu tham, nghe hắn nói thế tưởng thật, vội vã trở về nhà lấy lưới đến giăng bốn bên thúng rất cẩn thận. Mọi người xúm lại xem rất đông. Nhưng khi Cuội giở thúng ra, ai nấy đều phì cười vì chỉ thấy một bãi cứt trâu, chả có chim đâu cả. Riêng người chú bị Cuội đánh lừa, giận thâm gan tím ruột, bèn không đi chợ nữa, dắt Cuội về đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Một hôm khác, Cuội cùng chú đang cuốc cỏ ngoài đồng. Trời nắng như thiêu như đốt. Khát quá, người chú bảo hắn về nhà lấy nước mang ra. Vừa đến nhà, Cuội đã làm vẻ hốt hoảng, nước mắt giàn giụa, miệng mếu nói không ra tiếng:
– Khốn khổ lắm thím ơi! Chú bị trâu húc lòi ruột gan ra một đống. Hiện đã tắt thở, còn nằm trên cồn… Người thím nghe nói chỉ còn biết kêu trời khóc đất rồi bươn bả ra đồng. Vừa đi vừa ôm mặt than khóc rất thảm thiết. Cuội ta lại lẻn theo đường tắt, ba chân bốn cẳng chạy ra đồng. Sắp đến nơi, hắn cũng làm bộ đau đớn, bảo chú:
– Chú ơi! Trời hại ta. Thím ở nhà không biết leo trèo thế nào bị ngã từ trên gác xuống, chết tím cả mặt, không một ai biết cả. Người chú nghe nói, tưởng thật, đấm ngực kêu trời rồi chạy về kêu khóc suốt cả dọc đường. Đến khi hai vợ chồng đâm sầm vào nhau mới biết là thằng cháu ác nghiệt đánh lừa. Hai vợ chồng tức giận điên cuồng bèn đan một cái rọ bỏ Cuội vào rồi một mình chồng vác ra sông định vứt xuống nước.

Đến bờ sông, Cuội ta cầu khẩn: “Cháu có tội với chú thím, chú thím bắt chết cũng đáng. Có điều ở dương gian cháu nói láo kiếm ăn được là nhờ có một quyển sách nói láo bấy lâu nay vẫn gác trên sàn bếp. Nay chú làm ơn nghĩ đến chút tình máu mủ về lấy giùm quyển sách đó đặng cháu mang theo xuống âm phủ kiếm ăn”. Nghe hắn nói có vẻ thảm thiết, người chú tưởng thật, nghĩ bụng, tay hắn mình đã trói, rọ lại buộc chặt không thể trốn đi đằng nào được, bèn tất tả chạy về lấy sách. Đang ngồi co ro trong rọ bỗng trông thấy một thằng hủi đi qua, Cuội gọi giật lại:
– Này hủi ơi! Tao trước cũng sưng da thối thịt như mày, nhưng trời run rủi cho tao ngồi vào đây, thế rồi tao được người ta đưa xuống nước chạy chữa, rồi lại khiêng lên, bây giờ lành hẳn cả rồi. Mày cứ mở cho tao ra mà xem. Hủi tưởng thật, mở rọ cho Cuội ra, tấm tắc khen phép chữa mầu nhiệm rồi mừng rỡ nói:
– May cho tôi quá! Thế anh cho tôi ngồi vào đây rồi anh buộc hộ cho tôi với. Có mấy quan tiền xin được nhân thể tôi biếu anh.
Được tự do, Cuội chờ cho hủi vào, buộc rọ lại cẩn thận rồi cầm tiền đi thẳng. Lại nói chuyện người chú về nhà tìm mãi trên sàn bếp chẳng thấy gì cả, mới biết là mình lại bị lừa lần nữa, giận quá, hầm hầm trở ra, chẳng nói chẳng rằng đạp rọ lăn xuống sông. Thế là hủi ta mất tích.

Cuội theo dọc sông đến một cái cầu, nhân trời nóng nực mới cởi áo xuống tắm. Mấy quan tiền của hủi cho, hắn sợ để trên bờ có người lấy mất nên mang cả xuống sông. Một ông quan cưỡi ngựa đi qua trên cầu, thoáng thấy có thằng bé lặn ngụp dưới nước, một tay giơ lên cao có cầm cái gì giống như là quan tiền. Quan động lòng tham, dừng ngựa lại hỏi:
– Bé kia, mày làm gì ở dưới đó? Cuội làm bộ tìm tòi, nói với quan:
– Tôi mang đi cho cha tôi một thoi vàng, một thoi bạc và mấy quan tiền, lúc đứng chơi ở cầu không may lỡ tay đánh rơi xuống mất cả. Nay tôi lặn lội tìm chỉ được có mấy quan tiền mà thôi. Giờ tôi mà về, cha tôi thì đánh chết. Nói đoạn, Cuội hu hu khóc. ông quan bèn xuống ngựa, cởi quần áo bảo Cuội:
– Mày bước lên mau đi, để tao còn xuống tắm. Cút mau! ý của hắn là muốn một mình mò tìm, tìm được thì giấu đi một chỗ để số vàng bạc ấy về tay hắn hưởng. Vừa nói hắn vừa lội xuống nước: Cuội bước lên bờ vội lấy ngay quần áo của viên quan ra mặc. Quan hỏi:
– Mày làm gì thế? Cuội đáp:
– Tôi rét quá, nhờ áo ông mặc đỡ một tí cho ấm.
– Thế tên mày là gì? Quê quán ở đâu?
– Tôi họ Bái, tên Dưng, ở Bông Lông xã, Ba La huyện. Mặc xong, Cuội chờ lúc quan lặn xuống nước, lên ngựa phi nước đại. Viên quan lặn tìm mấy lần không thấy gì cả, nhìn lên bờ thì đã mất cả ngựa lẫn áo quần. Biết là bị thằng bé lừa, hắn vừa tức giận vừa hoảng hốt. Cuối cùng hắn dùng mấy cái đồ rách của Cuội bỏ lại, che tạm hạ bộ để chạy đi tìm Cuội. Gặp ai hắn cũng hỏi: “Có thấy tên Bái Dưng vừa chạy qua đây không?” Nghe hỏi thế mọi người chỉ tủm tỉm cười. Mãi đến khi gặp một người đàn bà, người này đồ hắn là một tên vô lại chọc ghẹo mình, mới quay lại mắng cho một trận. Hắn biết là dại, đành phải im mồm, rồi sau đó nuốt giận lần về nhà. Lại nói chuyện Cuội phi ngựa về nhà chú thím. Cả hai vợ chồng, nhất là người chồng rất lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao mình đã xô nó xuống sông hai năm rõ mười, thế mà bây giờ nó lại trở về được mà lại ăn mặc đàng hoàng như kia. Hỏi thì Cuội tươi cười đáp:
– Cháu xuống dưới ấy gặp được tất cả mọi người: ông, bà, cha, mẹ, nội ngoại đầy đủ. Cha mẹ cháu giàu có lớn lắm. Nhưng cháu nhớ chú thím quá nên chọn lấy một bộ quần áo, một con ngựa và ít quan tiền trở lên trên này. Rồi Cuội lại nói thêm:
– Ông bà vẫn nhớ chú thím lắm đấy và có dặn cháu mời chú thím xuống chơi! Hai vợ chồng người chú nghe nói mừng quá, hỏi Cuội:
– Chúng tao xuống có được không? Cuội trả lời:
– Có khó gì đâu, chú thím cứ làm rọ y như lúc cháu xuống. Nhưng cháu thì không vác nổi đâu, phải mang ra bờ sông, chui vào rọ rồi cháu sẽ lăn xuống thôi! Người chú vội vàng đan hai chiếc rọ đem ra bờ sông. Đoạn người chú chui vào một chiếc bảo nó buộc chặt lại, vứt xuống. Thấy tăm nước sủi lên sùng sục, Cuội vỗ tay reo:
– A ha! Chú đang lấy đấy! Nghe nói thế người thím Cuội giục cháu rối rít:
– Cháu cho thím xuống ngay đi! Người thím lại chui vào rọ để cho Cuội vứt luôn xuống sông. Thế là từ đó Cuội thừa hưởng cơ nghiệp của chú thím để lại.

Nhưng Cuội ăn chơi loang toàng chả mấy chốc đã bán hết gia tư điền sản. Hắn muốn đi chơi một phen cho thật xa, bèn sắm sửa lương thực rồi một hôm bỏ nhà ra đi. Cuội đến một vùng rừng núi trùng điệp. ở đây có rất nhiều voi, Cuội bèn nghĩ kế bắt cho được một con. Hắn ta đào một cái hố rất rộng và rất sâu ở chỗ voi hay qua lại. Trên miệng hố có bắc tre nứa lát phên và ghép cỏ rất khéo. Quả nhiên sau đó ba hôm có một con voi bị sa hố đầu chúc xuống dưới, đít chổng lên trời, không cựa quậy được. Cuội dùng đất lấp voi lại chỉ chừa có cái lỗ đít. Và khoét đít voi thành một cái lỗ lớn hơn, rồi cứ để yên tại đó, chỉ thỉnh thoảng đến trông chừng. Hắn bụng bảo dạ: “Rồi ta sẽ có một con voi biết bay, đi chu du thiên hạ!”. Sau khi voi chết, quạ và diều ngửi thấy mùi thịt liền rủ nhau tới ăn. Chúng nó chui qua lỗ đít tiến sâu vào thân con voi để rỉa lần thịt ở trong đó. Trước còn năm con mười con, sau dần dần có hàng trăm con ngày ngày chui vào chén thịt và lòng rất thỏa thích. Cuội ta chờ đến lúc thịt voi đã gần kiệt, rình khi chim chóc chui vào khá nhiều, mới thình lình đút nút đít voi lại. Thế rồi Cuội đào đất lên cho cái xác da voi nằm ngay ngắn. Hắn cưỡi lên lưng, dùng gậy đánh nhẹ ở dưới bụng voi. Tự nhiên bầy chim ở trong cái xác da voi bay vụt cả lên, mang cái xác da voi và Cuội lên trời. Cái xác da voi bay giữa không trung qua những núi dài sông rộng làm cho Cuội nhìn không chán mắt. Cuội cứ để cho bay mãi suốt ngày, cuối cùng nhìn thấy một kinh thành rộng lớn, trong đó nhà ngói san sát, người qua lại đông không biết bao nhiêu mà kể. Cuội muốn xuống xem thử cho biết.

Hắn vỗ mấy cái trên lưng voi, chim chóc thấy động phía trên thì sợ hãi xếp cánh không bay nữa. Cái xác da voi từ từ hạ xuống. Nó rơi xuống trúng giữa sân rồng có các quan đang làm lễ bái mạng. Nhà vua và tất cả triều thần thấy có một người cưỡi voi từ trên trời xuống thì kinh hãi bội phần, vội vàng sụp xuống lạy Cuội như tế sao. Họ đón Cuội như đón một vị thần vừa giáng hạ. Nhà vua thân đưa Cuội vào nội điện và không dám ngồi ngang hàng. Cuội sung sướng hưởng những cỗ bàn lễ vật của mọi người đem dâng. Khi nghe Cuội nói đến sự mầu nhiệm của con vật, nhà vua cất tiếng run run hỏi: “Ngài có thể cho quả nhân cưỡi lên voi đi ngắm cảnh gấm vóc trong thiên hạ được chăng?” Cuội đáp: “Được lắm, nhưng cần phải làm hai việc: một là nhà vua phải thay đổi quần áo cho tôi, vì con vật nó hay lạ hơi người, hai là khi ra giữa biển phải nhớ mở cái nút đằng sau cho nó uống nước”. Không một ai ngăn cản được lòng ham muốn của nhà vua. Cuối cùng cái xác da voi đưa vua lên không trung. Ra giữa biển, vua nhớ lời Cuội dặn, mở nút đằng đít để cho voi giải khát. Lũ quạ và diều mấy lâu bị giam cầm, nay thấy có chỗ hở lục tục bay ra tất cả. Cái xác da voi rơi xuống biển và chả mấy chốc nhà vua đã lọt vào bụng cá. Còn Cuội mặc áo hoàng bào lên làm vua nước ấy.

>>> Ngoài các truyện cổ tích cho bé 4 tuổi này các phụ huynh cũng có thể đọc thêm: Đọc Truyện Cho Bé Ngủ Mỗi Đêm – 9 Truyện Bố Mẹ Nhất Định Phải Biết

Truyện Cổ Tích Số 9 Sự tích hoa cúc vạn thọ 

Khi kể truyện cổ tích cho bé 4 tuổi nghe, bố mẹ nhất định phải kể về sự tích hoa cúc vạn thọ. Một loại hoa rất phổ biến mà bé có thể thấy hằng ngày. Nội dung truyện như sau

Ngày xưa có một em bé nghèo, mẹ mất sớm nên chỉ được sống với cha. Cha là chỗ để em nương tựa, nhưng cũng là người em phải chăm sóc, vì từ ngày mẹ không còn, cha em thường bị ốm đau luôn…

Lúc mẹ còn sống, em cũng được đi học dăm ba chữ. Sau khi mẹ mất, em đành học nghề để kiếm tiền nuôi cha. Em rất khéo tay nên đến học chạm trổ với một ông bác họ rất giỏi về nghề này.

Năm đó cha em ốm khá nặng. Ông bác họ đã hết sức giúp đỡ nhưng sau đó đành chịu vì ông cũng nghèo. Ông mách cho em bé biết là ở vùng dưới có một tên nhà giàu đang cất nhà mới, cần thợ chạm trổ cột kèo. Em liền nhờ ông bác họ chăm sóc cha hộ rồi xách đồ nghề đi ngay. Em mong sẽ kiếm được một ít tiền về thuốc thang cho cha. Gặp em, tên nhà giàu cho biết là hắn đã thuê đủ thợ rồi. Nhưng hắn lại hỏi em:

-Bây giờ tao không cần thợ chạm trổ mà cần một người giúp tao chuyện khác.
-Thưa ông chuyện gì?
-Mày biết ai có tài, cây chết rồi, vật chết rồi, người chết rồi, vẫn làm sống lại được thì mách cho tao, tao sẽ thưởng tiền và cho một ít thóc gạo.

Tên nhà giàu này tiền của thì nhiều, nhưng lại không có một tí tẹo thông minh nào. Đã thế hắn lại thích tỏ ra ta cũng là người có chút ít chữ nghĩa và tài trí. Vì vậy, hắn thích chơi với những người có tài để học điều này điều nọ rồi đi khoe với bà con họ hàng hoặc với người này người kia. Nghe hắn bảo cần có một người có tài, cây chết rồi, vật chết rồi, người chết rồi, vẫn làm sống lại được, em bé liền nhìn ra sân, nhìn lên bàn thờ nhà hắn ta, ngẫm nghĩ một giây lâu rồi nói:

-Thưa ông, những việc ấy, ông có thể giao cho con…
-Con ông nào? Con nhà ai?
-Con chứ còn con nhà ai nữa?
-Mày ấy à?
-Dạ!
-Mày có thể cứu cây, cứu vật, cứu người chết rồi sống lại được à?
-Dạ!
-Mày tự làm à?
-Dạ!
-Mày làm không được thì sao?
-Thì con xin ở làm người giúp việc không công cho ông trong ba năm.
-Được!
-Nhưng còn nếu con làm được thì sao?
-Tao sẽ thưởng cho mày một chục quan tiền và một chục nông thóc.

Em bé liền chỉ ra một dây bầu sắp leo lên đến giàn ở ngoài sân tên nhà giàu và nói: “Xin ông cứ cắt ngọn, nhổ hết rễ cái dây bầu kia, con làm phép, dây bầu sẽ sống lại cho ông xem.”

Tên nhà giàu đần độn nghe nói liền làm theo ngay. Em bé cầm cái ngọn bầu, chùm rễ bầu ra về, nói chắc: “Sáng mai, mời ông cứ dậy sớm ra mà xem!”

Sáng hôm sau, tên nhà giàu gắng dậy sớm (vì hắn ta vốn quen thói dậy muộn) ra chỗ cái gốc bầu bị ngắt ngọn, cắt rễ thì đã thấy cây bầu sống lại thật. Khi em bé đến, hắn ta mở mắt ra mà nhìn em rồi khen:

-Hay! Hay! Mày giỏi lắm! Dây bầu sống lại thật rồi! Mày làm như thế nào, thử nói tao nghe!
-Thưa ông, để con cứu vật, cứu người, nhận thưởng của ông rồi con hãy nói luôn một thể.
-Hay! Hay! Ừ! Như vậy cũng được!

Em bé lại chỉ con gà trống tơ đang đi trên sân rồi nói: “Thưa ông, ông cứ cho người nhà bắt con gà trống tơ kia thịt đi, sau đó ông cứ cho con bộ lông của nó con mang về nhà, ngày mai con sẽ mang nó sống lại nộp cho ông!”

Tên nhà giàu ngu ngốc liền sai gia nhân làm y lời em bé bảo. Em bé nhận bộ lông gà đủ các màu xanh trắng, tía ra về. Hôm sau em trở lại, mang theo một con gà trống tơ, đưa cho tên nhà giàu xem và nói: “Con đã làm phép cho nó sống lại rồi. ông xem có phải đúng là con gà nhà ông đã bị giết thịt hôm qua không?”

Tên nhà giàu đần độn ngu si càng trố mắt ra mà nhìn em bé, hắn nói:

– Hay! Hay! Đúng là nó rồi! Giỏi thật! Mày làm cách nào mà lại cứu sống được nó. Nói ngay cho tao nghe đi!
– Con đã nói từ đầu là xong cả ba việc, cứu cây, cứu vật, cứu người, nhận xong tiền thưởng, thóc thưởng con mới nói kia mà!

Tên nhà giàu đành phải nhượng bộ lần nữa. Em bé liền nhìn lên bàn thờ tên nhà giàu nói:

-Bây giờ ông cho con mượn cái bức vẽ ông cụ nhà, để con đem về một ngày, sáng mai con sẽ mang ông cụ sống lại đến cho ông!

Tên nhà giàu ngu ngốc lại làm đúng theo lời em bé. Hắn ta vừa bàng hoàng, vừa kinh ngạc hỏi lại:

– Ngày mai, chú sẽ đưa ông cụ tao sống lại đến đây à?
– Dạ!

Tên nhà giàu cứ đứng ngẩn người ra mà nhìn em bé mang cái bức vẽ ra về… Hôm sau em bé cầm bức vẽ trở lại, tên nhà giàu hỏi ngay:

– Ông cụ nhà tao sống lại chưa?
– Dạ rồi!
– Sao chưa thấy ông cụ đâu cả! Em bé liền chỉ vào cuộn giấy nói:
– Dạ, ở trong này rồi! Nói xong em bé mở cuộn giấy ra. Tên nhà giàu trợn mắt hỏi:
– Thế này mà gọi là sống à?
– Dạ!
– Mày điên à?
– Dạ không! Thưa ông vậy ông bảo cụ này chết à?
– Mày bảo ông ấy không chết mà sống đấy à ? – Em bé điềm tĩnh trả lời:
– Dạ, sống thật đấy chứ! Bởi vì người chết thì phải nhắm mắt. Mắt ông cụ vẫn mở to thế này, sao lại bảo là chết! Và người chết thì làm sao cười được. ông cụ cười thế này mà lại bảo là chết rồi sao?

Như thế là em bé đã vẽ lại bức tranh, ông cụ trong bức vẽ mới lại hơi mỉm cười. Tên nhà giàu đần độn, ngu ngốc không biết làm sao đành phải chịu thua cuộc em bé. Lão ta còn khen:

– Hay! Hay! Mày khôn lắm! ông phải chịu là mày giỏi… Nhưng còn cái con gà trống tơ và dây bầu thì mày đã làm như thế nào?
– Ông cứ mang tiền và thóc thưởng ra đây, con nhận xong, con sẽ nói.

Tên nhà giàu liền vào lấy tiền và sai người nhà đong thóc thưởng cho em bé. Nhận thưởng xong, bấy giờ em bé mới nói:

– Thưa ông, cái dây bầu kia sống lại là nhờ thế này. Con đã chọn một cái dây bầu giống như cái dây bầu nhà ông, đang đêm mang đến trồng lại, chỉ có thế thôi! – Tên nhà giàu nghe nói cứ lặng người đi, vì xấu hổ. Em bé lại nói tiếp:

– Còn con gà trống tơ, thưa ông, nó cũng na ná như vậy. Con đã để ý và biết là trong xóm con có một con gà tía, rất giống con gà mà ông đã cho thịt. Gà rất nhiều con trông giống nhau, ông muốn có con nữa, con sẽ có ngay cho ông. Con bỏ tiền ra mua đem nộp cho ông rồi sẽ có tiền thưởng to hơn gấp nhiều lần mang về.

Tên nhà giàu bấy giờ mới thấy hết cái đần độn, ngu ngốc của mình. Lão ta ôm đầu than thở: “Chỉ có vậy mà mình chẳng đoán ra! Nhưng dù sao thằng bé này vẫn là đứa giỏi. Thưởng cho nó cũng phải lắm.”

Nghĩ đến chuyện rồi mình sẽ bắt chước em bé và sẽ có khối người phục mình, hắn vui vẻ nhìn em bé nhận tiền, nhận thóc ra về. Có lẽ trong việc này, hắn đã tỏ ra bớt phần ngu ngốc. Thấy con mang mười quan tiền và mười nông thóc về, người cha mừng rỡ lạ lùng. Nghe con kể lại chuyện, ông đang ốm cũng phải cười khẽ mấy tiếng… Người cha vừa khỏi bệnh thì tiền kia thóc kia cũng không còn nữa. Mà ngày giỗ mẹ sắp đến rồi. ông liền nói với con:

-Thôi con ạ, cứ nấu bát cơm, kho đĩa cá cúng mẹ là được rồi!

Nhưng em bé hiếu thảo nào đâu chịu vậy. Em lại nghĩ đến tên nhà giàu tuy đần độn, ngu ngốc nhưng không đến nỗi keo kiệt kia. Em nghĩ bụng: Lần trước ông ta đố mình, bây giờ mình có cái gì đố lại nhỉ! Em định vậy nhưng chưa nghĩ ra được cách nào. Trước mắt em phải lo giỗ mẹ cái đã. ừ thì một bát cơm, một đĩa cá, nhưng cũng có tí hương hoa cho mẹ vui lòng. Em sẽ gắng tìm mua một nén hương. Còn hoa? Đang mùa cây khô, lá vàng, cả xóm chẳng thấy cái hoa nào để xin cả. Không có thì phải làm ra vậy!

Em bé vốn khéo tay lại vô cùng thông minh ấy liền chọn những lá lúa to đẹp nhất, cắt ra thành những sợi thật nhỏ rồi bó túm lại, bên dưới thắt thật chặt, còn bên trên thì cho xòe ra. Em lấy kéo tỉa thật đẹp, thật tròn. Sau đó em lại đi hái mấy cái lá xanh, buộc thêm vào ở dưới nhìn như cái đài hoa. Em làm một chùm năm cái, cắm vào ống tre, đặt lên bàn thờ cúng mẹ. Người cha thấy thế liền hỏi con:

-Con có thứ hoa gì mà lạ vậy? Em bé mỉm cười, ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
-Hoa trăm tuổi đó mà cha! Hoa để cúng mẹ rồi mẹ sẽ phù hộ cho cha sống thật lâu với con đó!
-Mới nhìn, cha cứ tưởng là hoa thật.

Lời nói của người cha bỗng làm cho em bé nảy sinh ra một ý mới. Vậy là sau khi cúng mẹ, em liền đem một bông hoa kia đến tên nhà giàu và nói:

– Tôi có bông hoa lạ mang đến để biếu ông và cám ơn ông đã thưởng cho tôi tiền, thóc dạo nào. – Tên nhà giàu vui vẻ nhận hoa rồi hỏi lại:
– Hoa này là hoa thật hay hoa giả?
– Muốn thật thì nó thật mà muốn giả thì nó giả.
– Vì sao lại thật? Vì sao lại giả?
– Thật vì nó có thật mà giả vì nó không phải từ cây mà từ tay người làm ra. Em bé trả lời xong tiếp luôn:
– Lần trước ông ra bài cho con làm. Lần này con xin phép được đố ông một câu vì con nghe nói ông giỏi về chuyện giải các câu đố lắm! – Tên nhà giàu nghe nói, gan ruột cứ nở nang cả ra.
– Ừ, đố đi!
– Con đố ông hoa này có bao nhiêu cánh. ông mà đoán trúng, con sẽ đến ở giúp việc không công cho ông ba tháng.
– Còn nếu không đoán đúng?
– Điều đó xin tùy ông! Con chỉ xin nói là hiện nay con đang cần vải để may cho cha con một bộ quần áo mới. Tết sắp đến rồi.
– Được, tao mà đoán sai, tao sẽ cho mày mấy thước vải về may áo cho cha mày.
– Dạ, vậy thì ông đoán đi! Tên nhà giàu nhìn vào bông hoa một lúc rồi nói:
– Tao đếm có được không?
– Đếm thì không phải là đoán nữa rồi. Nhưng xin ông cứ đếm.

Tên nhà giàu thử đếm mà không tài nào đếm được vì cánh hoa nhiều quá, cứ xúm xít xen lẫn vào. Không làm sao biết rõ cánh hoa nào đã đếm, cánh hoa nào chưa đếm.

-Tao mở ra đếm có được không?
-Mở ra thì càng không phải là đoán nữa rồi. Nhưng xin ông cứ mở.

Tên nhà giàu liền mở bông hoa ra, bắt đầu đếm. ông ta đếm khá vất vả. Vì những cánh hoa bé và nhiều quá. Có lúc vừa đếm xong được một khóm gió bỗng thổi tung làm lẫn những cánh hoa chưa đếm vào. Có lúc chính ông ta quên mất là mình đã đếm đến chục thứ mấy, tám mươi hay chín mươi… Nhưng ông ta vẫn quyết đếm cho kỳ được. ông đếm mãi, gần hết cả buổi sáng mới gọi là xong. ông ta hớn hở trả lời luôn:

– Bông hoa này có vừa đúng một nghìn cánh! Em bé liền hỏi lại:
– Ông bảo là một nghìn cánh?
– Ừ! Chứ sao nữa! Mày đã chịu thua tao chưa nào?
-Vậy thì ông sai, sai to rồi!
-Sao lại sai! Mày đếm đi!
-Thưa ông tôi đã đếm rồi! Phải nói là ông đã đếm đúng nhưng mà vẫn sai.
-Thằng này nói lạ! Đúng mà lại sai! Như vậy là thế nào?
-Dạ vì ông đã quên rằng: Hoa nào thì cũng có cánh và có nhụy, ông đã đếm cả cánh và nhụy gộp vào với nhau rồi.
-Cái nào là cánh, cái nào là nhụy?
-Thưa ông, những cái ngắn hơn nhỏ hơn một chút là nhụy. Đây con sẽ chỉ cho ông xem. Em bé liền nhặt ra những sợi rơm nhỏ hơn và ngắn hơn một tí rồi bảo:
-ông xem đấy là nhụy đâu phải là cánh!
-Nhụy thì nó nằm ở giữa, sao nhụy này lại lẫn lung tung?
-Dạ, vì bông hoa này gồm nhiều hoa nhỏ ghép lại, mỗi hoa có bốn cánh và một nhụy ở giữa.
-Vậy theo mày có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhụy?
-Tám trăm cái cánh, hai trăm cái nhụy! – Một lần nữa, tên nhà giàu lại phải chịu thua em bé.
-Thằng này nói phải! Hoa thì phải có nhụy chứ! Tao quên, tao quên! Được, tao sẽ thưởng cho mày! Nhưng mày phải buộc lại cái bông hoa này để nó cho tao! Tao sẽ đem đi đố người khác xem họ có bị quên như tao không? Tao được cuộc, tao sẽ còn được to gấp mấy mày!

Em bé nhận được mấy thước vải về may áo Tết cho cha. Em kể hết đầu đuôi câu chuyện cho cha nghe. Lần này không còn bị ốm như lần trước, người cha đã bật lên cười thành tiếng. Ăn Tết xong, người bác họ đi làm ở xa về bảo cho hai cha con biết là vua đang dựng một ngôi đền lớn và cần có nhiều thợ chạm trổ thật khéo tay. Ông rủ hai bố con em bé cùng đi với mình, hứa sẽ đưa em vào một nhóm người chuyên chạm trổ chân cột đền. Hai bố con cùng về kinh. Sau này, nhờ khéo tay, lại thông minh sáng tạo, em bé trở thành người thợ chạm trổ giỏi nhất nước.

Một lần người thợ tài giỏi ấy được gặp cháu thần cây là thần Tiêu Lá. Nghe người thợ tài giỏi nhất nước kể lại câu chuyện ngày nhỏ, thần Tiêu Lá liền hỏi thật kỹ, sau đó thần tạo nên một giống hoa để người đời nhớ mãi tấm lòng của chú bé hiếu thảo rất đỗi thông minh kia. Hoa có hình dáng rất giống cái bông hoa kết bằng rơm của em bé ngày xưa. Hoa cũng có màu vàng như rơm, đẹp tươi hơn rơm, mà cũng nở vào dịp Tết. Hoa nở nhiều bông, lâu tàn, có hương thơm đặc biệt như là hương thơm của lòng hiếu thảo. Lá cũng thơm, đẹp như được một người rất khéo tay cắt tỉa chạm trổ. Hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa Vạn Thọ. Tên có hai chữ nhưng đó là cả một lời chúc cho ông bà, cha mẹ và tất cả mọi người ai ai cũng được sống lâu trăm tuổi với những người thân của mình.

Truyện Cổ Tích Số 10 Sự tích Cây Cà Phê 

Ngày xưa, ở một vùng đất nọ nơi của những con sông và dòng thác gặp nhau có một buôn làng nhỏ sinh sống. Họ sống yên bình bên những nương ngô nương sắn xanh mướt núi rừng. Miền đất của những chàng trai thạo nghề săn bắn, những cô gái khéo tay dệt vải, mọi người sống gắn bó với nhau. Những đứa trẻ của buôn làng đêm đêm trong ngôi nhà Rông vẫn được người già kể cho nghe chuyện về những người con dũng cảm của buôn làng đã diệt trừ thú dữ đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người.
Mùa xuân khi những cánh hoa rừng bùng nở khắp nơi nơi, trong làn mưa xuân nhè nhẹ, tiếng chiêng, tiếng cồng nổi lên rộn rã báo hiệu mùa gieo hạt, mùa lễ hội bắt đầu. Ánh lửa trong ngôi nhà Rông không bao giờ tắt, ché rượu cần uống mãi không bao giờ cạn, mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa, ca hát cầu cho một vụ mùa tốt tươi, cái mưa cái nắng cứ đi nhưng đừng quên đường về để cho cái bắp thêm đầy hạt, cây lúa thêm nặng bông, thần sông thần suối hiền hòa, những loài thú dữ tránh xa buôn làng.
Một ngày mới, khi những tia nắng ban mai rực rỡ chiếu xuống khu rừng còn đang chìm trong màn sương dày đặc, từ phía nhà Rông già làng đánh cồng gọi mọi người tới. Khi mọi người đã tập trung đông đủ trước nhà Rông, già làng cất tiếng.
Ngày hôm nay buôn làng ta đón một tin vui, một đứa trẻ vừa mới được sinh ra, một thằng con trai. Đã là con trai của buôn làng này phải có thừa sự khôn ngoan và lòng dũng cảm. Có cái sức mạnh của con hùm, con gấu, cái dẻo dai của con rắn con trăn, đôi chân chạy xa như con hươu con nai, như thế mới xứng đáng là đứa con của buôn làng.

Rồi mọi người cùng đi về phía đầu buôn, lễ tắm cho cậu bé được diễn ra bên cạnh ngọn thác đang ầm ầm chảy. Sau khi già làng cất tiếng mời thần sông thần núi về nhận mặt và che trở cho cậu bé, mọi người lần lượt tới xoa đầu và chúc cậu bé những lời chúc tốt lành. Trong vòng tay của người mẹ, cậu bé quẫy đạp rất hăng, nhìn cậu bé cứng cáp khỏe mạnh làn da nâu bóng, miệng rộng, đôi mắt sáng mọi người cùng nói.
Đúng nó là đứa con của buôn làng này rồi, chẳng mấy chốc nó sẽ như cái lời già làng đã nói thôi.
Cậu bé lớn lên khỏe mạnh như mọi đứa trẻ của buôn làng, lên ba tuổi cậu phải mồ côi cha. Được mọi người trong buôn làng giúp đỡ nên cuộc sống hai mẹ con cậu bớt khó khăn hơn. Lớn lên trong tình thương của mọi người cậu rất yêu quý buôn làng của mình. Thời gian thấm thoát trôi đi, chẳng bao lâu cậu đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh, con chim sơn ca của núi rừng. Được già làng truyền cho rất nhiều kinh nghiệm đi săn. Tuy săn giỏi nhưng cậu không bao giờ làm hại những con vật hiền lành. Hươu nai trong rừng coi cậu như người bạn thân, chúng quẩn quanh chơi cùng cậu mỗi khi cậu vào rừng. Khi cậu cất lên tiếng hát thì con chim thôi không hót nữa, đán cá dưới khe cũng ngừng bơi, đàn Hoẵng phải dừng bước sợ sa xuống vực. Tiếng hát bay về làm mọi người trong buôn quên hết mệt mỏi sau một ngày lên nương vất vả.
Một ngày kia khi cuộc sống yên bình đang diễn ra thì tai họa bất ngờ ập tới. Một buổi sớm khi những chàng trai còn đang gỡ bẫy trên rừng, những cô gái đang giặt vải bên suối, đám trẻ nô đùa trước nhà Rông thì bỗng một con chim lạ không biết từ đâu bay tới, đôi cánh của nó dang rộng che khuất cả bầu trời, nó bay tới đâu gió từ đôi cánh phát ra làm cây rừng nghiêng ngả tới đó, hai chân với những chiếc móng to và sắc như những lưỡi lao, từ trên cao nó ầm ầm lao xuống giữa buôn làng, trong phút chốc tiếng kêu thét vang dậy khắp nơi, nhiều ngôi nhà bị sập, biết bao người bị chim dữ bắt đi, vẻ hoảng loạn hiện trên khuân mặt mọi người. Gìa làng lệnh cho mọi người lánh vào rừng tránh chim dữ quay lại nhưng những chàng trai dũng cảm quyết ở lại, họ thề sẽ tiêu diệt chim dữ để bảo vệ buôn làng, vũ khí của họ là giáo mác cung tên được chuẩn bị sẵn, những chiếc bẫy lớn được giăng ra, những thân cây to được dựng lên khắp nơi. Sáng hôm sau chim dữ lại theo đường cũ mò đến, khi nó sà xuống giữa buôn làng bàn chân nó lập tức mắc vào chiếc bẫy lớn đã giăng sẵn, những mũi tên, ngọn lao từ mọi hướng vun vút lao tới, những thân cây to ầm ầm quật xuống người nó, bị thương chim dữ lồng lộn tức giận phá nát các ngôi nhà. Trước kẻ thù to lớn và hung dữ những chàng trai vẫn chiến đấu ngoan cường nhưng vũ khí của họ không hạ được chim dữ, rất nhiều người bị chim dữ giết và tha đi.
Thấy chim dữ giết hại nhiều người, cuộc sống yên vui không còn nữa già làng phải dẫn mọi người đi tìm miền đất mới. Bỏ lại sau lưng mảnh đất đã gắn bó với họ bao đời buôn làng bước bào hành trình hiểm nguy đầy gian khổ, bao hiểm nguy chờ đợi họ phía trước. Đói khát, bệnh tật làm kiệt sức và quật ngã rất nhiều người trên đường đi. Họ đi mãi, đi mãi nhưng miền đất mới vẫn chưa hiện ra chỉ thấy rừng già âm u ngày càng dày đặc. Đêm xuống bên đống lửa xua đi cái lạnh tê người, mọi người dựa vào nhau trong giấc ngủ chập chờn bởi những loài thú dữ đang bủa vây xung quanh họ. Mái tóc của già làng đã bạc trắng, hai con mắt trũng sâu, hàng đêm già vẫn ngồi lặng im bên đống lửa canh cho mọi người và khi trời sáng lại dẫn đầu đoàn người lên đường. Nhưng rồi lương thực mang theo đã cạn dần, nỗi sợ hãi và tuyệt vọng bao trùm lên đoàn người. Thấy buôn làng thân yêu chịu bao khổ đau do chim dữ gây ra chàng trai quyết ra đi diệt trừ chim dữ để cứu buôn làng. Trước ý chí của chàng người mẹ chỉ biết gạt nước mắt, già làng ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Ta biết ý chí của con nhưng kẻ thù của con to lớn hơn con gấp ngàn lần, nó rất hung dữ, bao nhiêu người đã phải bỏ mình vì không có thứ gì để chống lại nó. Ta nghe người xưa truyền lại rằng trên đỉnh núi cao nhất và xa nhất kia, nơi đó quanh năm mây trắng bao phủ có một thứ sắt rất thiêng, những hôm nào trời sáng trời mới thấy ánh của nó lấp lánh, chỉ thứ sắt đó làm gươm thì mới chống lại được kẻ thù nhưng đường đi tới đó có rất nhiều nguy hiểm không phải ai cúng đến được, ý con thế nào?
Chàng trai đáp.
– Thưa già, ý con đã quyết dù có khó khăn đến mấy con cũng không ngại.
Thế rồi từ biệt mẹ già và mọi người chàng trai ra đi theo hướng tay già chỉ, vượt qua những con sông cuồn cuộn , những dòng thác hung dữ, bàn chân chàng đi miết về phía mặt trời lặn. Rừng già dày đặc, gai nhọn xuyên qua da thịt, dây rừng níu bước chân chàng, những loài thú dữ theo dấu hơi tìm tới nhưng nhờ sự mưu trí tất cả không ngăn được bước chân chàng. Rồi một ngày bước chân chàng cũng bước lên đỉnh ngọn núi cao nhất. Trước mắt chàng sắt thiêng hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời, mọi đau đớn về thể xác dường như tan biến. Cầm sắt thiêng trên tay trong người chàng như có một luồng sức mạnh chảy qua, quãng đường về như ngắn lại.
Cả buôn làng mừng vui đón chàng trai trở về, già làng nói trước mọi người.
Buôn làng hãy xem đứa con thân yêu của chúng ta đã mang được sắt thiêng trở về, không loài thú nào có thể hại được nó, đó là nhờ thần sông, thần núi thương tình che trở cho nó mang được sắt thiêng này về, tất cả hãy đốt đống lửa kia to nữa lên để rèn gươm.
Thế rồi mọi người cùng dồn sức vào để rèn gươm, họ làm việc ngày đêm không nghỉ, trong lòng mỗi người phấn khởi như đã diệt trừ được chim dữ. Ngày gươm thần làm xong, sau khi cầu thần sông, thần núi che trở cho chàng trai, già làng thay mặt buôn làng trao thanh gươm cho chàng trai. Trong tay chàng thanh gươm bỗng tỏa ánh sáng rực rỡ, cầm thanh gươm vung lên trong người chàng sục sôi ý chí tiêu diệt kẻ thù.
Buôn làng góp những hạt gạo cuối cùng làm một nắm cơm thật to cho chàng trai mang theo.
Qua bao ngày lặn lội theo hướng những cây rừng ngã đổ cuối cũng chàng trai cũng tới được nơi chim dữ ẩn náu. Đó là một vùng núi non vô cùng hiểm trở, chim dữ đang ngủ trong một hang sâu, tiếng thở ầm ầm của nó làm đất đá trước cửa hang cũng phải rung chuyển. Lòng căm giận trào dâng chàng trai xông đến trước cửa hang thét lớn. Tiếng thét làm chim dữ tỉnh giấc, ngửi thấy mùi thịt người nó ầm ầm từ trong hang lao ra. Trông thấy chỉ là một con người nhỏ bé đứng trước hang chim dữ xông tới, nó bổ chiếc mỏ khổng lồ của mình bổ xuống đầu chàng, như một con sóc chàng nhanh nhẹn tránh được đoạn lưỡi gươm trong tay chàng vung ra, một bên mỏ của chim dữ bị lưỡi gươm chém đứt. Chim dữ lồng lên tức giận, nó lao lên trên không dang hai cánh đập mạnh, luồng gió từ đôi cánh phát ra làm những tảng đá to ầm ầm lao vào người chàng trai. Không hề nao núng chàng trai vung thanh gươm lên, dưới đường gươm loang loáng những tảng đã vỡ vụn dưới chân chàng. Núng thế chim dữ lao vào tấn công bằng những chiếc móng sắc nhọn như những mũi lao. Cuộc chiến diễn ra hết sức quyết liệt, bầu trời tối sầm lại cả một vùng đất rộng lớn tan hoang, những con sông dòng thác sục sôi reo hò tiếp thêm sức mạnh cho chàng trai. Đã bảy ngày bảy đêm cuộc chiến giữa người và chim dữ chưa phân thắng bại, hai bên dần kiệt sức. Trên người chim dữ lúc này chỉ còn lại duy nhất một chiếc móng làm vũ khí, khắp thân thể chàng trai cũng đầy những vết thương, sang đến ngày thứ tám một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu chàng. Trong một lần chim dữ lao vào chàng trai đã dùng hết sức mình phóng lưỡi gươm về phía chim dữ, lưỡi gươm xé gió lao trúng ngực chim dữ, đó cũng là lúc chiếc móng sắc nhọn của chim dữ cùng thân nó đổ ập vào người chàng trai. Máu của chàng trai hòa lẫn máu của chim dữ chảy xuống đỏ cả dòng sông. Dòng sông sục sôi trào nước lên đỏ khắp cả một vùng rộng lớn. Khi buôn làng tới nơi không thấy chàng trai và thanh gươm đâu chỉ thấy xác chim dữ gục chết bên dòng sông đỏ ngầu cuồn cuộn. Đứng trước xác chim dữ già làng nói với mọi người.
Hỡi buôn làng, đứa con thân yêu của buôn làng ta đã không còn nữa, nó đã hóa thân vào cỏ cây sông suối núi rừng này để đem đến cuộc sống bình yên cho chúng ta, buôn làng ta tự hào vì có người con dũng cảm, nó sẽ sống mãi trong lòng chúng ta, luôn bên cạnh chúng ta. Mỗi khi buôn làng gặp hiểm nguy nó sẽ luôn che trở cho chúng ta.
Người mẹ của chàng trai rất đau buồn nhưng bà rất tự hào vì có người con dũng cảm đã tiếp nối truyền thống về những người con anh dũng của buôn làng, nó sẽ sống mãi trong lòng bà và mọi người.
Từ đó buôn làng được sống một cuộc sống yên bình, một cuộc sống trên miền đất mới nơi chim dữ bị tiêu diệt. Nơi chàng trai và chim dữ ngã xuống mọc lên một cây lạ, cây đó lớn nhanh như thổi chẳng mấy chốc đã tỏa bóng xum xuê, hoa của nó nở trắng muốt cùng những chùm quả trĩu cành, khi ăn vào mọi người thấy như có một sức mạnh chảy qua. Miền đất đó chính là miền đất Tây Nguyên ngày nay còn cây lạ đó chính là cây cà phê, loài cây có sức sống mãnh liệt trên vùng đất đỏ này. Chính tại miền đất này đêm đêm trong ngôi nhà Rông những đứa trẻ của buôn làng vẫn được người già kể cho nghe về tấm gương của chàng trai và những người con anh dũng của buôn làng bên dãy Trường Sơn hùng vĩ.

Trên đây là tổng hợp 10 truyện cổ tích cho bé 4 tuổi hay nhất. Các phụ huynh có thể đọc thêm cho bé: 14 Câu Truyện Cho Bé Ý Nghĩa Nhất Mà Tất Cả Các Mẹ Phải Kể Cho Bé

5/5 - (4 votes)

Check Also

Nội dung truyện Con hổ có nghĩa

[ FULL ] Truyện Con Hổ Có Nghĩa Lớp 6 – Nội Dung, Bài Soạn và Ý Nghĩa

Truyện con hổ có nghĩa đề cao lối sống nghĩa tình trong cuộc sống. Thấy …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *