Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1930 và của nền văn học Việt Nam thế kỷ 20. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động của một vùng biển giàu đẹp ở miền Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới đây là nội dung bài thơ cũng như tác giả và tác phẩm.
Các Nội Dung Chính
Bài thơ đoàn thuyền đánh cá
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hồng Gai, 4-10-1958Bài thơ này được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế của tác giả ở Hồng Gai, in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958) và đăng trên Tạp chí Văn nghệ số 18 (tháng 11-1958).
Nguồn:
1. Huy Cận, Trời mỗi ngày lại sáng, NXB Văn học, 1958
2. Tuyển tập Huy Cận (tập I), NXB Văn học, 1986
3. Vườn hồng (thơ nhiều tác giả), NXB Phổ thông, 1961
Đôi nét về tác giả bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
– Huy Cận (1919-2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận
– Quê quán: Làng Ân Phú- huyện Dụ Quang- tỉnh Hà Tĩnh
– Sự nghiệp sáng tác:
+ Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào thơ mới với thơ “Lửa thiêng”.
+ Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam
+ Huy Cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996)
– Phong cách sáng tác:
+ Trước cách mạng, hồn thơ ông là một hồn thơ ảo não
+ Sau cách mạng, hồn thơ ông có sự biến chuyển tươi vui hơn
Đôi nét về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Hoàn cảnh sáng tác
Giữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”
Bố cục: 3 phần
– Phần 1 (2 khổ đầu):Cảnh đoàn đánh cá ra khơi
– Phần 2 (4 khổ tiếp theo): Cảnh đoàn thuyền đánh trên biển
– Phần 3 (khổ cuối): Hình ảnh đoàn thuyền trở về
Giá trị nội dung
Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thớ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp.
Giá trị nghệ thuật
Bài thơ có sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú. Âm hưởng thơ khỏe khoắn hào hùng và sáng tạo.
Dàn ý phân tích Đoàn thuyền đánh cá
Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”:
+ Huy Cận nổi tiếng trong phong trào thơ mới với thơ “Lửa thiêng”, ông hay viết về thiên nhiên và vũ trụ, trước cách mạng thơ ông phảng phất buồn nhưng sau cách mạng hồn thơ Huy Cận trở nên ấm nóng, tươi vui
+ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ tiêu biểu của ông – là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động làm chủ biển khơi làm chủ cuộc đời
Thân bài
1. Khúc hát ra khơi (khổ 1+2)
• Khổ 1:
– Hai câu đầu: Đoàn thuyền ra khơi trong cảnh hoàng hôn (2 câu thơ đầu)
+ Phép so sánh “mặt trời xuống biển” ví như “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời
+ Nhà thơ liên tưởng vũ trụ như ngôi nhà lớn với màn đêm là cánh cửa còn sóng biển là then cài
⇒ Vũ trụ đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi gợi sự bình yên, con người ra khơi vào thời điểm về đêm
– Hai câu sau: Dân chài cất cao tiếng hát tạo sự khỏe khoắn (2 câu thơ cuối)
+ Người dân chài ra khơi theo một tập thể- “Đoàn thuyền”
+ Từ “lại” cho thấy đó là một công việc thường xuyên, quen thuộc của họ, cứ màn đêm buống xuống thì họ lại ra khơi
+ Ẩn dụ “câu hát căng buồm” cho thấy câu hát cũng như có sức mạnh góp gió căng buồm đẩy con thuyền ra khơi
⇒ Vũ trụ bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu ra khơi đánh cá với khí thế phơi phới và niềm vui đang chinh phục biển khơi
• Khổ 2: Câu hát thể hiện mong ước đánh nhiều cá và sự tự hào về sự giàu có của biển
– “ Cá bạc, cá thu” gợi sự giàu có phong phú của biển
– So sánh “cá thu biển đông như đoàn thoi” – từng đàn cá lao trên mặt biển như đoàn thoi mang ánh sáng lấp lánh dệt muôn luồng sáng trên tấm thảm biển
– Ẩn dụ, nhân hóa “đêm ngày dệt biển” tạo ra nhiều sắc màu chuyển động
– Nhà thơ cất tiếng gọi cá thật dịu dàng “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”: vừa là lời gọi vừa là niềm mong ước đánh được nhiều cá vừa xen cả sự lạc quan tươi vui và tự hào về biển
2. Khúc hát đánh cá trên biển(khổ 3+4+5+6)
• Khổ 3: Người dân ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao
– Nghệ thuật phóng đại “Lướt giữa mây cao với biển bằng”- con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé giờ đây qua cái nhìn của tác giả đã sánh ngang tầm vũ trụ
– Nghệ thuật ẩn dụ: “lái gió buồm trăng”: thiên nhiên hòa hợp, cùng con người lao động
⇒ Các biện pháp nghệ thuật trên làm nổi bật tầm vóc của con người và đoàn thuyền
– Không khí lao động đang trở nên hứng khởi “ Ra đậu dặm xa dò bụng biển”- mặc đêm tối, mặc gió khơi người dân chài vẫn ra khơi dò lồng cá trong lòng biển
– Ẩn dụ: “Dàn đan thế trận”- cuộc sống đánh cá của người dân chài như một trận chiến đấu ác liệt
⇒ sự kết hợp giữa hiện thực (đoàn thuyền) với chất lãng mạn (thuyền lái gió, trăng treo trên cánh buồm) tạo nên những vần thơ đẹp và sâu sắc
• Khổ 4:Cảnh biển đẹp trong đêm
– Nhà thơ đã liệt kê những loài cá quý của biển: cá nhụ, cá chim, cá đé cho thấy sự phong phú và quý giá của biển
– Nhân hóa “Cái đuôi e quẫy” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc: làm cho lời thơ thêm sinh động
– Phép so sánh “đuôi cá” với “ngọn đuốc”: hình ảnh so sánh thú vị giàu liên tưởng
– Nhà thơ gọi cá bằng một cách gọi rất dịu dàng-“em” ẩn chứa sự yêu mến với cá và biển cả quê hương
– “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”: Màn đêm trước biển như một sinh mệnh
⇒ Thiên nhiên trên biển đêm thực sự rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài
• Khổ 5:Tinh thần lao động hăng say và lòng biết ơn biển
– “Ta hát bài ca gọi cá vào”: Người dân chài đã biến công việc nặng nhọc thành bài ca vui tươi ⇒ Tiếng hát của người dân chài có khả năng kì diệu là gọi cá vào lưới
⇒ bút pháp lãng mạn khi miêu tả giúp cho công việc đánh cá đêm trở nên thơ mộng
+ Những người dân chài vô cùng biết ơn biển cả “biển cho ta cá như lòng mẹ”
+ So sánh biển với lòng mẹ cho thấy biển nuôi sống nhân dân từ bao đời nay
⇒ Nói lên lòng tự hào và biết ơn biển
• Khổ 6:Cảnh thu hoạch cá
– “sao mờ kéo lưới kịp trời sáng”: người dân thu hoạch cá vào lúc trơi đã gần sáng hăng say
– “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”: công việc trở nên khẩn trương với hi vọng đón chờ chùm cá nặng, cho hình dung thấy những cánh tay sắn chắc, cuồn cuộn, tư thế hiên ngang, làn da nhuộm năng gió, nhuộm cả vị mặn mòi của biển cả
– Kéo lưới lên là khi trời đã sáng, bình minh lên là kết thúc công việc đánh cá
⇒ Bút pháp lãng mạn được sử dung làm nổi bật vẻ thơ mộng khi đã kết thúc công việc đánh cá đêm.
– “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”: mọi vật đều tràn ngập sức sống ⇒ Cảnh biển vào lúc mình minh bao la kì vĩ ⇒ Đoàn thuyền đang khẩn trương để trở về
3. Khúc ca khải hoàn (Khổ 7)
– “Câu hát căng buồm với gió khơi”: gió thổi đưa câu hát của người dân chài bay cao, bay xa trên biển
– “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”: Đoàn thuyền lướt sóng trở về như đua cùng thời gian để nhanh chóng trở về bến cảng
⇒ Câu hát lúc trở về say sưa hơn bao giờ hết, vì một đêm lao động vất vả đã được đề đáp một cách xứng đáng
– “Mặt trời đội biển nhô màu mới”: niềm hi vọng, sự ngợi ca cuộc sống mới của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, được làm chủ cuộc sống của mình
– Từ láy “huy hoàng” : là ánh sáng huy hoàng của niềm vui niềm tin vào một cuộc đời tốt đẹp
⇒ Vẻ đẹp của con người, thiên nhiên hòa hợp nhuần nhuyễn thành vẻ đẹp thực sự tráng lệ
Kết bài
– Khẳng định những giá trị nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: hình ảnh thơ đẹp, xây dựng bằng sự liên tưởng phong phú, âm hưởng mạnh mẽ, bút pháp lãng mạn xen hiện thực
– Bài thơ là khúc hát ngợi ca con người lao động trên biển đồng thời là niềm say mê tự hào của con người làm chủ quê hương
Xem thêm: Sơ Đồ Tư Duy Chiếc Thuyền Ngoài Xa Đơn Giản Nhưng Đầy Đủ Dễ Hiểu
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn
Nhắc đến phong trào thơ mới trước Cách mạng tháng tám năm 1945, ta không thể nào không nhắc đến nhà thơ Huy Cận. Ông là một nhà thơ với tâm hồn tươi trẻ, dạt dào tình yêu thiên nhiên và lúc nào cũng nhìn thấy những sự sôi nổi, tươi vui từ trong những hình ảnh của đất nước, con người ở thời đại mới. Đoàn thuyền đánh cá chính là một bài thơ nói lên cái chất riêng trong thơ của ông. Bài thơ được sáng tác năm 1968, trong một chuyến đi thực tế của tác giả ở vùng biển Quảng Ninh. Đọc bài thơ, ta thấy được một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đây cũng là một khúc ca hùng tráng về đất nước, về con người.
Khác với cuộc sống của những người bình thường, khi họ đi làm vào ban ngày và trở về vào buổi tối thì những người ngư dân trên biển lại bắt đầu làm việc khi mọi người ai nấy đã trở về nhà:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”
Một hình ảnh thiên nhiên thật đẹp được tác giả gợi tả qua câu thơ đầu tiên của bài thơ. Đó là lúc hoàng hôn buông xuống, mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang chìm dần xuống đáy đại dương. Sóng khi ấy cũng đã cài then, để màn đêm buông xuống với cái cửa tối đóng sầm lại. Hình ảnh so sánh giàu tính nghệ thuật, gợi liên tưởng thật thú vị qua hai câu thơ đầu tiên. Chính trong hoàn cảnh vào ban đêm ấy, người ngư dân phải ra khơi, bắt đầu công việc của mình. Từ “lại” cho thấy đây không phải công việc bất chợt mà nó được lặp đi lặp lại, có tính thường nhật. Người ngư dân vốn đã quen với cái nghề “lênh đênh sóng nước” này rồi. Bắt đầu làm việc, họ cũng bắt đầu cất lên tiếng hát yêu đời, say mê: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Người ngư dân cất lên những câu hát về cuộc sống trong suốt hành trình làm việc kéo dài từ đêm tới sáng của mình. Họ hát về những thứ:
“Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!
Trong câu hát của những người ngư dân, ta thấy được hình ảnh của các loài cá. Nào là cá bạc, cá thu.. là những sự hiện thân sáng rõ nhất của biển cả, của đại dương mênh mông. Hình ảnh so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” cho thấy một tài nguyên biển vô cùng phong phú, giàu có ở vùng biển Quảng Ninh. Vô vàn những loài cá tươi ngon ấy, hãy đến dệt lưới cho người ngư dân ngay thôi nào! Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của người ngư dân trên biển. Dù vất vả, khó khăn nhưng không gì có thể khiến họ đầu hàng được.
Với câu hát yêu đời, người ngư dân có một đêm làm việc hăng say trên biển:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận, lưới vây giăng”
Nhà thơ Huy Cận đã rất khéo léo khi sử dụng hình ảnh thơ đầy thi vị: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”. Con thuyền được con người làm chủ tay lái, làm chủ tự nhiên “lái gió” và thiên nhiên “buồm trăng”. Lái gió và chở cả trăng, chắc có lẽ ta không thể tìm được ở đâu một hình ảnh thơ độc đáo đến như vậy. Con thuyền tự do lướt giữa bầu trời và biển cả, cũng là một hình ảnh sáng tạo như ở câu thơ trên. Người ngư dân đang dàn thế trận, chờ đón kết quả của một buổi tối làm việc chăm chỉ.
Khổ thơ thứ tư càng làm rõ hơn tâm thế làm chủ thiên nhiên của con người:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Một lần nữa, câu hát của người ngư dân lại cất lên, nhưng đó không phải câu hát thúc đẩy, khích lệ nhau bắt đầu làm việc nữa mà có lẽ là câu hát yêu đời, tha thiết gọi đàn cá đến đây để kéo được một mẻ lưới tươi ngon. Lời hát cùng với tiếng sóng gõ vào mạn thuyền như bắt nhịp với nhau, vừa hát vừa có tiết tấu, gợi hình ảnh đầy lãng mãn của con người lao động. Họ làm việc tuy vất vả nhưng vẫn luôn tươi vui. Câu thơ thứ ba là hình ảnh so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ”. Biển được so sánh với “lòng mẹ”, mà lòng mẹ thì bao la, rộng lớn biết bao, biển đem đến cho ta thức cá tươi ngon, là thành quả cũng như nguồn sống của người ngư dân. Không những thế, mẹ thiên nhiên còn nuôi dưỡng ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Sau cả một đêm làm việc vất vả, trời lúc này cũng đã sáng:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Trời đã sáng rồi, và thành quả của người ngư dân đang ở ngay trước mắt. Họ kéo được một mẻ cá đầy, đến mức “xoăn tay”, và hiện lên trước mắt họ là những vảy cá lóe sáng lấp lánh dưới ánh nắng hồng. Có thể nói, nhà thơ đã không bỏ sót bất kì một hành động nào của người ngư dân. Những hành động rất đỗi quen thuộc hằng ngày của họ cũng có thể trở thành một hình ảnh thơ đầy tính nghệ thuật dưới con mắt của nhà thơ Huy Cận.
Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về được miêu tả thật đẹp ở khổ thơ cuối:
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.”
Đây là lần thứ ba câu hát được lặp lại trong bài thơ. Câu hát lúc này như trở thành một điệp khúc, nó được cất lên mỗi khi đoàn thuyền đánh cá đang muốn truyền tải một điều gì đó. Ở trong lời thơ cuối này thì có lẽ nhà thơ muốn truyền tải đến người đọc tinh thần lạc quan, yêu đời, tự tin chạy đua cùng với thiên nhiên của người ngư dân. Đoàn thuyền đang chạy đua thật nhanh với biển cả, để trở về trước khi bình minh lên cho kịp đưa những mẻ cá tới tay người bán. Hai câu thơ cuối là hình ảnh thơ đẹp nhất trong bài:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.”
Mặt trời được nhân hóa đang “đội” cả biển lớn, mở ra một ngày mới tràn đầy sôi động, đầy sức sống. Câu thơ sau với hình ảnh “Mắt cá huy hoàng” cho thấy sự tươi ngon, mặn mà của hải sản – cái mà mẹ thiên nhiên đã trao tặng cho chúng ta. Có thể nói, toàn bộ bài thơ là một bức tranh lao động đầy nhiệt huyết, tươi vui của người ngư dân ở vùng biển Quảng Ninh. Bức tranh ấy mở ra trước mắt người đọc một cuộc sống mới của đất nước khi bắt đầu xây dựng lại nền kinh tế sản xuất.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận đã cho thấy một cảm hứng lãng mạn, một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, mang âm hưởng hào hùng. Không chỉ vậy, nó còn làm hiện lên hình ảnh đẹp đẽ của người dân lao động và sự giàu có, phong phú của biển cả dành cho con người. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về hồn thơ Huy Cận và tấm lòng của ông đối với quê hương, đất nước.
Phân tích Đoàn thuyền đánh cá hay nhất
Nhắc đến phong trào thơ mới không thể không nhắc tới nhà thơ Huy Cận. Trong suốt cuộc đời làm thơ của mình, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm hay như Vũ trụ ca, Lửa thiêng. Giọng thơ của Huy Cận có sự biến chuyển theo thời cuộc và mang hơi thở của cuộc sống. Năm 1958, ông đã sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khi đang tham gia chuyến thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Bài thơ nằm trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng và tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam.
Đọc tựa đề người đọc có thể mường tượng ra một khung cảnh lao động hăng say của những con người làm nghề chài lưới, đánh bắt. Vẻ đẹp của con người kết hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên một bức tranh vô cùng hoàn mĩ.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.
Bài thơ mở đầu bằng cách tái hiện lại khoảnh khắc hoàng hôn trên biển. Cảnh tượng ấy mới thật huy hoàng và lộng lẫy làm sao. Mặt trời lúc này trở nên thật gần và cũng thật to. Mặt trời đang xuống biển, đỏ rực như một hòn lửa. Lời thơ có sự ví von thật tinh tế và thật đẹp. Sóng cũng đã “cài then”, đêm cũng chuẩn bị “sập cửa” để nghỉ ngơi sau một ngày dài. Đây là lúc mà lẽ ra mọi người phải được ngơi nghỉ thì đoàn thuyền đánh cá lại bắt đầu ra khơi. Từ “lại” giúp cho người đọc thấy được sự lặp đi lặp lại của hành động. Không phải hôm nay đoàn thuyền mới ra khơi mà ngày nào cũng vậy. Họ căng buồm lên và rồi cất cao tiếng hát đầy say mê.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đàn cá ơi
Giữa cảnh mênh mông sông nước cùng với đêm tôi nhưng những người đi đánh cá vẫn giữ trong mình một tinh thần vui tươi, yêu đời. Họ nhìn thấy được cái đẹp của biển cả vào ban đêm. Cái đẹp ấy đến từ những mẻ đầy tôm cá. Mỗi ngày cất vó ra khơi là chỉ mong được biển hào phóng ban tặng cho cá, cho tôm. Lời hát vừa như để thể hiện tinh thần yêu đời của mình, vừa như để cảm ơn sự giàu có của biển. Câu thơ cất lên khiến người đọc cũng cảm thấy rộn rã.
Bằng con mắt trữ tình của mình, nhà thơ Huy Cận như hóa thân vào chính những người đánh cá. Họ làm việc một cách hăng say quên đi những mệt mỏi và những hiểm nguy luôn rình rập. Trước mắt họ chỉ nhìn thấy niềm vui trong lao động:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Ở những câu thơ này, tác giả Huy Cận đã thể hiện được cái tài hoa của mình. Ông sử dụng phong vị thơ cổ điển qua những hình ảnh như “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Công cuộc đánh cá cũng giống như một trận đánh chứ không hề đơn giản là cứ thả lưới mà xong. Những người ngư dân cũng phải thăm dò ra đậu dặm xa để tìm được đâu là bãi cá. Rồi “dàn đan thế trận” giống như người lính bài binh bố trận để vây bắt quân thù. Buông lưới làm sao để sớm mai trở về với một thuyền đầy cá. Quả thực nghĩ đến thôi cũng thấy đầy phấn khích.
Đối với người ngư dân, biển chính là linh hồn của họ. Họ gắn bó mật thiết với biển và nếu như không có biển cuộc sống sẽ trở nên tăm tối. Chính sự gắn bó ấy khiến họ thuộc biển như trong lòng bàn tay. Những cái tên của những loài cá, rồi thì thói quen của chúng họ đều biết cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long
Giữa đêm tối nơi mặt biển, ánh trăng trở nên long lanh hơn. Ánh trăng phản chiếu xuống mặt biển, chạm vào những chú cá khiến chúng cũng như đang phát sáng. Câu thơ miêu tả lũ cá cùng với ánh sáng thật diệu kì. Cá trở thành những ngọn đuốc lấp lánh giữa trời. Chúng quẫy đuôi khiến trăng trở nên vàng chóe. Ánh trăng chính là người bạn soi sáng cho ngư dân bắt được mẻ cá đầy.
Đêm dần chuyển mình, ánh mặt trời đã sắp lên, nhịp độ công việc càng trở nên gấp gáp. Những câu thơ vang lên khiến cho người đọc cảm thấy như đang được chứng kiến tận mắt cảnh kéo lưới với những tiếng hô theo nhịp rộn ràng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Những câu thơ làm hiện lên dáng người ngư dân đang kéo lưới, họ dồn hết sức mạnh vào đôi bàn tay để kéo cho được mẻ cá lên. Câu thơ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” không khiến người đọc cảm thấy nặng nề mà chỉ thấy một niềm khoan khoái bởi kéo được mẻ cá nặng là một sự thành công lớn. Rạng đông đang lóe sáng, buồm lại căng để đón nắng hồng. Đoàn thuyền đánh cá cũng chuẩn bị trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Khổ thơ cuối bài, tiếng hát của sự lao động hăng say vẫn được cất lên. Dường như sau một đêm, chẳng có gì khiến cho người ngư dân cảm thấy mệt mỏi. Họ bắt đầu chạy đua cùng với mặt trời để làm sao trở về đất liền vào trước lúc mặt trời lên. Đó là cuộc chạy đua với thiên nhiên nhưng cũng là cuộc chạy đua với cuộc sống. Bài thơ khép lại với hình ảnh của một ngày mới bắt đầu. Đó là một màu sắc mới, mặc dù cũng là biển đấy, cũng là mặt trời đấy nhưng nó mang đến một sự tươi mới. Câu thơ như báo hiệu rằng người ngư dân vẫn sẽ tiếp tục ra biển vào những ngày sau và đó cũng là những cuộc đánh cá mới.
Bài thơ khép lại, lòng người đọc vẫn còn thấy rộn ràng. Bài thơ là sự ca ngợi nguồn tài nguyên của đất nước, ca ngợi sự cần cù của những con người lao động ngày ngày làm giàu cho đất nước. Bài thơ mang đến cho người đọc sự tươi vui và nhận ra được giá trị của cuộc sống này.